Cảm nghĩ khi đọc: Phò giá về kinh của Trần Quang Khải (văn 10)
Kết cấu chặt chẽ, có sức khái quát cao, cảm xúc cô đọng lại vừa có khả năng gợi mở ý tưởng đã tạo ra một sự thống nhất nội dung và hình thức theo kiểu tuyên ngôn riêng biệt. Đấy chính là nét đặc sắc của Phò giá về kinh
Bài
làm
Hào khí Đông A (chiết tự chữ Trần viết theo Hán tự) khởi phát
bởi chiến thắng đế quốc Nguyên - Mông lần thứ nhất - 1258 đã được khẳng
định rực rỡ, hùng hồn bằng các chiến công vang dội trong hai lần đại thắng
1285, 1287 sau đó. Con cháu của những “Người
lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong” đã làm cho kẻ xâm lược hãi
hùng ngay cả khi chúng yên ổn về nước - “Nghe
tiếng trống đồng mà tóc trên đầu bạc trắng” (Đồng cổ thanh trung bạch phát
sinh). Đó là sức mạnh toàn diện của dân tộc dưới thời nhà Trần trên cơ sở ý
thức tự cường, tự chủ.
Khí phách hào hùng ấy đã vang động thành cảm hứng yêu
nước được biểu hiện một cách tập trung, đa dạng trong thơ văn. Từ một lời hịch thiết tha trước khi lâm trận, bài phú hào sảng, hồi quang mấy chục năm sau
đến những tứ tuyệt, những ngũ ngôn 4 câu, 20 chữ ngay trong cuộc chiến.
Phò
giá về kinh của Trần Quang
Khải là một trong những bài như thế.
Cuối năm
1284 đầu năm 1285, quân Nguyên- Mông ào ạt tấn công nước ta lần thứ hai. Tình
thế đất nước hiểm nghèo, các vua Trần
phải dời kinh đô tìm phương kế chống đỡ. Nhưng chỉ qua mùa xuân năm
1285, quân ta đã chuyển thế tấn công. Tháng tư, trong trận đánh tại Hàm Tử, một
địa điểm trên sông Hồng tại huyện Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên ngày nay) tướng Trần Nhật Duật đã
phá tan đạo quân Thát Đát, bắt sống giặc Ô Mã Nhi. (Trong Đại cáo bình Ngô sau này
Nguyễn Trãi nhầm sự việc nên viết “Cửa
Hàm Tử bắt sống Toa Đô, sông Bạch
Đằng giết tươi Ô Mã”). Tháng 6, Trần Quang Khải thắng tiếp trận Chương
Dương, đuổi đạo quân chủ lực của Thoát Hoan chạy dài lên phía bắc, giải phóng
Thăng Long, rước vua Trần trở lại kinh thành. Trong không khí ấy, ông ngẫu hứng
cao độ làm nên Tụng giá hoàn kinh sư
(Phò xa giá nhà vua về lại kinh đô) danh bất hư truyền. Cùng khoảng thời gian
này, vua Trần khi đến tế ở nhà Thái miếu cũng
ứng khẩu hai câu : "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã / Sơn hà thiên
cổ điện kim âu". Nghĩa
là "Đất nước hai phen bon ngựa đá /Non sông nghìn thủa vững âu vàng", cùng một mạch cảm hứng yêu
nước, tự hào dân tộc.
Bài thơ
chỉ bốn câu, theo lối năm chữ mạch lạc, gọn gàng. Hai câu đầu kể lại hai chiến
công hiển hách vừa mới đó, đang còn tươi nguyên không khí chiến thắng. Có nét
đặc biệt là trình tự các chiến công không được nêu theo diễn biến thời gian
trước sau. Chiến thắng Chương Dương trước, Hàm Tử sau. Cách trình bày như thế
là theo cái lô-gíc của cảm hứng. Trận sau mới hơn và cũng vang dội hơn. Chính
nhờ chiến thắng Chương Dương mà Thoát Hoan phải bỏ chạy, Thăng Long được giải
phóng. Chính nhờ chiến tháng Chương Dương mà có cái không khí rạo rực phấn chấn
trong ngày “về lại thủ đô” này. Lời thơ rất cô đúc, vẻn vẹn mười chữ, nêu hai
sự việc là “cướp giáo giặc” và “bắt quân thù”. Song qua hai hình ảnh này người
đọc cảm nhận được niềm phấn chấn, hân
hoan. Đúng là câu thơ đăng đối bên ngoài đanh chắc, bên trong chứa chan xúc
cảm. Cảm xúc theo kiểu cô lại. Sự cô đúc này tạo ra một thế năng, khả năng khơi
gợi người đọc suy ngẫm. Một trong những đặc trưng thẩm mĩ của thi pháp cổ là
gợi, ít chú trọng kể, tả.
Hai câu thơ sau
là lời động viên, quyết tâm xây dựng,bảo vệ nền thái bình của giang sơn, đất
nước.
Nguyên văn :
Thái bình tu
trí lực
Vạn cổ thử
giang san
Vẫn
trình bày theo lối ngũ ngôn như trước nhưng lại đặt ra một nhiệm vụ, một yêu
cầu hoàn toàn mới. Thông thường, sau chiến thắng người ta dễ thoả mãn, dễ say
sưa với vinh quang, bỏ lỡ một khoảng thời gian cần thiết chuẩn bị cho tương
lai. Trần Quang Khải đã có nhận thức
hoàn toàn đúng và đặt vấn đề một cách kịp thời về những công việc thời hậu
chiến. Ông hiểu rằng những công việc của một đất nước sau chiến tranh là hết
sức bộn bề. Thái độ và hành động ở thời kì thái bình rất cần phải tập trung là
“tu trí lực”. “Tu” là học tập, bồiđắp, “trí lực” là trí tuệ, khả năng. Ý thơ
vẫn tiếp tục gợi cho người đọc hiểu thêm rằng, đất nước vẫn đang đòi hỏi, còn
yêu cầu những con người chiến thắng này nhiều cống hiến hơn nữa. Có như vậy mới
có sự yên bình, vững chãi muôn năm. Một ý thơ đầy tinh thần trách nhiệm.
Bài thơ
có cái hồ hởi, phấn chấn tột cùng trước những chiến thắng, những chiến công.
Niềm tự hào, niềm say mê, tinh thần lạc quan thật bay bổng phù hợp với hào khí
Đông A thủa ấy. Nhưng đây cũng là một niềm vui rất lí trí, rất tỉnh táo sáng
suốt của con người ý thức được giá trị trọn vẹn của niềm vinh quang. Mặt khác
phù hợp với phong cách ngôn ngữ, uy thế của vị tướng quốc đầu triều.
Kết cấu chặt chẽ,
có sức khái quát cao, cảm xúc cô đọng lại vừa có khả năng gợi mở ý tưởng đã tạo
ra một sự thống nhất nội dung và hình thức theo kiểu tuyên ngôn riêng biệt. Đấy
chính là nét đặc sắc của Phò giá về kinh.
Cho đến
hôm nay bài thơ vẫn sống trong niềm tự hào dân tộc, vẫn giữ nguyên giá trị thời
sự nóng hổi, vẫn là một bài học. Bài học về
ý thức, trách nhiệm xây dựng đất nước vững mạnh sau chiến tranh.